HMS Queen (D19), nguyên là
tàu sân bay hộ tống USS St. Andrews (CVE-49) (ký hiệu lườn ban đầu
AVG-49 và sau đó là
ACV-49) của
Hải quân Hoa Kỳ thuộc
lớp Bogue, được chuyển cho
Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và đã hoạt động trong
Chiến tranh Thế giới thứ hai.St. Andrews được đặt lườn với số hiệu MC 260 theo một hợp đồng với
Ủy ban Hàng hải Hoa Kỳ vào ngày
12 tháng 3 năm
1943 tại xưởng đóng tàu của hãng
Seattle-Tacoma Shipbuilding ở
Tacoma, Washington; được xếp lại lớp với ký hiệu lườn
CVE-49 vào ngày
15 tháng 7 năm
1943 và được hạ thủy vào ngày
31 tháng 7 năm
1943, được đỡ đầu bởi Bà Robert W. Morse. Nó được chuyển cho
Anh Quốc vào ngày
7 tháng 12 năm
1943 theo chương trình
Cho thuê-cho mượn, được đổi tên thành
HMS Queen (D19), và đã hoạt động trong chiến tranh như một chiếc thuộc
lớp Ameer.Queen đã phục vụ như một tàu sân bay
chống tàu ngầm, tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại
Đại Tây Dương trong năm
1944, và trong các chiến dịch tại
Thái Bình Dương vào năm
1945. Vào ngày
4 tháng 5 năm
1945, máy bay thuộc Phi đội 853
Không lực Hải quân Hoàng gia xuất phát từ Queen đã tham gia cuộc không kích cuối cùng trong chiến tranh tại châu Âu, đánh chìm tàu hậu cần
Black Watch sử dụng cho lực lượng
U-boat tại
Kilbotn,
Na Uy, tàu tiếp liệu
Senja và tàu ngầm
U-711. Sau khi chiến sự kết thúc, nó được cải biên thành tàu chở binh lính dùng vào việc hồi hương lực lượng Anh tại Viễn Đông, trước khi quay trở về
Hoa Kỳ, về đến
Norfolk, Virginia vào ngày
31 tháng 10 năm
1946.Sau khi được chính thức hoàn trả cho
Hoa Kỳ, nó được rút khỏi danh sách
Đăng bạ Hải quân vào
tháng 7 năm
1947, rồi được bán cho hãng tàu N.V. Stoomv, Maats, Nederland Co. tại
Amsterdam,
Hà Lan vào ngày
29 tháng 7 năm
1947 để hoạt động hàng hải thương mại tư nhân dưới tên gọi Roebiah (đổi tên thành President Marcos vào năm
1967 và Lucky One vào năm
1972). Nó được tháo dỡ tại
Đài Loan vào năm
1972.